VIỆT – NGA TÌNH BẠN TỪ CHIẾN HÀO TRƯỚC THỬ THÁCH VÀ CƠ HỘI TRONG TRẬT TỰ THẾ GIỚI ĐA CỰC
Trong thế giới đầy toan tính và biến động, để có được tình bạn chân thành giữa người với người đã là một thử thách không dễ vượt qua. Thử thách đó càng trở nên khó khăn hơn gấp nhiều lần khi tìm kiếm một mối quan hệ ngoại giao chân thành, tin cậy và bền vững giữa hai quốc gia.
Bất chấp thực tế nghiệt ngã đó, tình hữu nghị Việt – Nga đã trải qua 75 năm thử thách khắc nghiệt của thời gian cũng như những biến động thời cuộc, sau khi Liên Xô chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 30/01/1950. Trong 75 năm qua, kể từ khi Việt Nam tuyên bố thoát khỏi ách đô hộ gần trăm năm của thực dân Pháp, Liên Xô và sau ngày là Liên Bang Nga đã luôn vai kề vai với Việt Nam trong những giai đoạn lịch sử khó khăn và gian khổ nhất.
Đó là hàng chục ngàn tấn vũ khí, vật tư quân sự, những dàn hỏa tiển, khẩu pháo đầy uy lực viện trợ cho Việt Nam trong chiến dịch Điện Biên Phủ vào thập niên 1950 đã khiến kẻ thù khiếp đảm và tê liệt ý chí xâm lược.
Đó là những "con rồng lửa" Dvina, những cánh én bạc MiG không chỉ giúp Việt Nam tránh quay về thời đồ đá như lời tuyên bố của Nixon vào năm 1972, mà những vũ khí dũng mãnh và uy lực này đã đưa Việt Nam tiến lên "thời đại đồ nhôm" một cách hài hước nhưng cũng đầy bi tráng.
Có được những chiến thắng oanh liệt và bi tráng đó, không thể không nhắc đến những đóng góp và hy sinh thầm lặng nhưng vô cùng to lớn của hàng chục nghìn chuyên gia, chiến sĩ Xô Viết – những người không chỉ chung lưng đấu cật với bộ đội Việt Nam trong cùng một chiến hào, trên cùng một mâm pháo trong những ngày đế quốc Mỹ điên cuồng mang bom đạn dội lên đầu người dân Việt Nam, mà còn có cả những chiến sĩ tình báo thầm lặng trên mặt trận thông tin. Và trong số đó có cả những chiến sĩ đã mãi mãi không thể trở về.
Trong những giai đoạn khó khăn của cuộc chiến, đã có những nghi ngờ, mẫu thuẫn và cả hiểu lầm giữa 2 bên. Nhưng trên hết người bạn lớn Xô Viết đã kiên định dành cho Nhân dân Việt Nam sự hỗ trợ đầy tin cậy và vô cùng quý báo không chỉ đến ngày giành thắng lợi cuối cùng mà còn cả giai đoạn tái thiết sau chiến tranh.
Và như một cuộc hẹn định mệnh trong dòng chảy lịch sử nhân loại, ngày những chiếc xe tăng T54 dũng mãnh do Liên Xô viện trợ được các chiến sĩ giải phóng quân húc đổ cổng Dinh Độc Lập 30 tháng 04 năm 1975, kết thúc chế độ tay sai ngụy quyền Sài Gòn thì cũng là ngày Hồng quân Liên Xô cắm cờ trên tòa nhà Quốc hội Đức, kết thúc chế độ Đức quốc xã 30 năm trước.
Khi những thần sấm, con ma thôi gào thét trên bầu trời Hà Nội, khi chất độc da cam không còn đổ xuống cây cỏ, ruộng vườn, hàng ngàn tấn bom napal không còn thiêu đốt làng mạc, trẻ em không còn khiếp đảm vì bom rơi đạn nổ trên đường đến trường thì cũng là lúc Nhân dân Xô Viết một lần nữa tham gia giúp đỡ xây dựng và tái thiết Việt Nam sau chiến tranh.
Những nhà máy, xí nghiệp, trung tâm văn hóa, trường học, bệnh viện từng bị bom Mỹ tàn phá giờ được các chuyên gia Liên Xô sửa chữa và xây mới. Hàng loạt công trình tiêu biểu có thể liệt kê như Cơ khí Hà Nội, Cẩm Phả, Sông Công; thủy điện Thác Bà, Sông Đà, Trị An; mỏ than Mông Dương, Apatite Lào Cai, hóa chất Lâm Thao, Bệnh viện và Nhà văn hóa hữu nghị Việt – Xô, ĐH Bách khoa Hà Nội, cầu Thăng Long,...cùng biết bao công trình khác đều do Liên Xô giúp đỡ xây dựng.
Trong số này không thể không kể đến những công trình mang tính chiến lược tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển của Việt Nam sau này như Tuyến đường sắt Bắc Nam, công ty dầu khí Việt – Xô, Trung tâm nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt đều là những công trình mang đậm dấu ấn về sự giúp đỡ chí tình của Nhà nước và Nhân dân Xô Viết dành cho Nhà nước và Nhân dân Việt Nam trong giai đoạn khó khăn sau chiến tranh.
Đặc biệt trong số này là Nhà máy thủy điện Hòa Bình – một trong những công trình có quy mô lớn nhất Đông Nam Á thời bấy giờ, đã giúp nhân dân Việt Nam từ chổ phải sống trong hầm tối để tránh bom đạn cùng những trận càn của quân Mỹ giờ đây đã có cơ hội tiếp cận cuộc sống văn minh nhờ ánh sáng điện do các chuyên gia, kỹ sư Liên Xô thiết kế, xây dựng.
Chưa dừng lại ở đó, sau khi Mỹ đã đổ hơn 80 triệu lít chất độc da cam tàn phá môi trường, đầu độc vật nuôi, cây trồng, con người, gây di chứng cho 4-5 thế hệ thì một lần nữa lại chính các chuyên gia Liên Xô là những người đã giúp đỡ rất nhiều trong việc rà phá bom mìn và làm sạch những vùng đất nông nghiệp đã bị nhiễm chất độc da cam và các hóa chất độc hại khác.
Ước tính số tiền Liên Xô viện trợ cho Việt Nam mỗi năm lên đến hàng tỉ đô la từ năm 1953 đến năm 1991 và phần lớn trong số đó là miễn phí hoặc viện trợ không hoàn lại. Đến đầu thập niên 2000 tổng thống Liên Bang Nga Putin tiếp tục xóa nợ cho Việt Nam số tiền lên tới 9,5 tỷ USD từ thời Liên Xô.
Trái ngược với Liên Bang Nga, chế độ Washington sau khi thực hiện các cuộc thảm sát, trút bom đạn, chất độc da cam lên đầu người dân Việt Nam đã buộc Hà Nội phải thanh toán món nợ 145 triệu đô la của chế độ ngụy quyền Sài gòn như một điều kiện tiên quyết để xúc tiến quan hệ ngoại giao. Theo AP trích dẫn thông tin của Bộ Tài chính Mỹ cho biết, trong số nợ 145 triệu đôla có khoảng 76 triệu đôla nợ gốc phần còn lại là tiền lãi và chi phí phát sinh do trượt giá. Món nợ này từng được Hà Nội xem là món nợ ô nhục, tuy nhiên trước áp lực từ Washington, Hà Nội đã buộc phải thanh toán không thiếu 1 xu số nợ này vào năm 2019.
Trong thập niên từ 2000 trở về trước, tiếng Nga từng được coi là ngôn ngữ của tri thức là ngoại ngữ chính thức được dạy trong các trường đại học Việt Nam. Hàng chục ngàn du học sinh được Liên Xô đào tạo, sau này họ không chỉ trở thành những nhà lãnh đạo, cán bộ chủ chốt trong bộ máy nhà nước mà còn trở thành những doanh nhân góp phần định hình nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Trong số này có thể liệt kê một trong những cái tên nổi bật như Nguyễn Đăng Quang chủ tịch tập đoàn thực phẩm Masan, Đặng Khắc Vỹ chủ tịch VIB Bank, Ngô Chí Dũng chủ tịch VPBank, Hồ Hùng Anh chủ tịch TechcomBank, Trần Anh Tuấn chủ tịch MaritimeBank, Lê Viết Lam chủ tịch Sungroup, Nguyễn Thị Phương Thảo CEO Vietjet và tất nhiên không thể thiếu tỉ phú Phạm Nhật Vượng chủ tịch VinGroup doanh nhân giàu nhất Việt Nam hiện nay.
Thật không ngoa khi nói rằng nền tảng của nước Việt Nam hiện đại ngày nay có được là nhờ sự giúp đỡ và hinh sinh to lớn của Nhà nước và Nhân dân Xô Viết trước đây cũng như Liên bang Nga sau này. Đó không chỉ là những hệ thống vũ khí uy lực, hiện đại. Những công trình chiến lược thế kỷ hay nguồn nhân lực chủ chốt, mà đó còn là nền tảng tư tưởng – là kim chỉ nam đã giúp Việt Nam tìm ra con đường giải phóng dân tộc, giành độc lập, xây dựng và bảo vệ đất nước khi lần đầu tiên Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất Những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin năm 1920.
Đã hơn một thế kỷ trôi qua, chính xác là 105 năm kể từ khi chỉ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên tiếp cận tư tưởng Lê-nin, Việt Nam từ một quốc gia thuộc địa dưới sự đô hộ của thực dân Pháp nay đã chuyển mình thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới, có tiếng nói và vị thế ngày càng quan trong trên trường quốc tế.
Đáng tiếc thay, trong giai đoạn Việt Nam đang có sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế thì sức ảnh hưởng của Liên Bang Nga lại đang trở nên mờ nhạt. Năm 2014, kim ngạch thương mại Việt – Nga là 2,5 tỉ đô la. Mười năm sau, năm 2024, kim ngạch thương mại hai nước tăng lên 3,5 tỉ đô la. Dù Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại tự do FTA Việt Nam – EAEU từ năm 2016. Một con số mà ngay cả một người không phải là chuyên gia kinh tế cũng thấy rõ sự không bình thường, nếu không muốn nói là chán ngán và thất vọng.
Cần phải nhắc lại rằng năm 2013 trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Liên Bang Nga, Medvedev hai bên đặt mục tiêu nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 10 tỉ đô la vào năm 2020. Và nay mục tiêu này được dời đến năm 2030. Tiếng Nga từ chổ là ngoại ngữ chính thức trong các trường Đại học ở Việt Nam nay đã nhường chổ cho tiếng Anh. Du học Nga không còn là ưu tiên hàng đầu đối với sinh viên Việt Nam.
Không chỉ vậy truyền thông chính thống Việt Nam thường xuyên trích dẫn các luận điệu không thiện chí, thiếu khách quan, thậm chí là xuyên tạc, không đúng sự thật từ truyền thông phương Tây để lên án, công kích Nga trong khi lại phớt lờ những lý lẽ và lợi ích chính dáng từ phía Nga. Bằng chứng rõ nhất là hàng loạt các kênh truyền thông Việt Nam trong đó có cả Đài truyền hình Hà Nội dẫn nguồn tin từ truyền thông phương Tây phao tin rằng cựu Thứ trưởng Quốc phòng Nga Tatiana Shevtsova ôm tiền đào tẩu sang Pháp.
Trong khi Nga đang đơn độc chống lại phương Tây tập thể thì tại Việt Nam có những quan chức đưa ra những phát ngôn thiếu thiện chí, vô căn cứ gây bất lợi cho Nga. Điển hình là trường hợp Nguyễn Hồng Quân, nguyên là Phó viện trưởng Viện Chiến lược Quốc phòng; nguyên Phó Cục trưởng Cục đối ngoại, Bộ Quốc phòng khi ông này cho rằng Nga đang bị cô lập trên trường quốc tế vì Chiến dịch Quân sự Đặc biệt.
Thực tế đã chứng minh đây là nhận định sai lầm vì Diễn đàn Kinh tế Quốc tế St.Petersburg, Diễn đàn Câu lạc bộ quốc tế Valdai ở Mátxcơva, Hội nghị thượng đỉnh BRICS ở Kazan được tổ chức sau Chiến dịch Quân sự Đặc biệt thu hút một lượng lớn nguyên thủ quốc gia đặc biệt là từ các quốc gia Nam Bán cầu, cũng như phóng viên từ khắp nơi trên thế giới kể từ các quốc gia phương Tây.
Hiện trạng này có vẻ như không phản ánh mong muốn của lãnh đạo hai nước trong văn bản nhận thức chung về sự cần thiết phải gìn giữ và phát triển tình hữu nghị Việt – Nga thân thiết, thủy chung, sâu sắc. Đồng thời văn bản nhận thức chung này cũng đã được chính thức hóa bằng nền tảng pháp lý. Đó là “Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Nga”, đã được hai nước ký kết ngày 16-6-1994.
Tháng 10 năm 20224, Viện Trung Quốc và Châu Á đương đại (ICCA) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga và trường đại học ngoại giao hàng đầu của Nga – Đại học Quan hệ Quốc tế Mátxcơva MGIMO, đã tổ chức các hội thảo khoa học về chính trị quốc tế và các vấn đề đương đại, về lịch sử và kinh tế, văn hóa và văn học của Việt Nam. Trong đó, một số báo cáo lưu ý rằng, sự quan tâm của người Việt Nam đến Nga trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn hóa và giáo dục đã suy giảm.
Giáo sư Vladimir Mazyrin lưu ý đến mức độ phụ thuộc cao của nền kinh tế Việt Nam vào các nước phương Tây thể hiện trên nhiều lĩnh vực gây đe dọa mất chủ quyền kinh tế, dẫn đến việc áp đặt các quyết định chính trị từ bên ngoài, làm xói mòn lợi ích cơ bản của đất nước và tạo ra nguy cơ phong tỏa thực sự nếu Mỹ hoặc EU áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Việt Nam.
Nguy cơ này đang ngày càng trở nên hiện hữu hơn khi Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển tiếp thế hệ lãnh đạo. Các vị trí chủ chốt trong các cơ quan quyền lực nhà nước từ chổ trước đây do nhân sự được đào tạo từ Liên Xô nắm giữ thì nay đang dần bị thanh thế bằng nhân sự do Mỹ và phương Tây huấn luyện và tất nhiên không phải ai trong số này cũng ưu tiên lợi ích của Nhà nước và Nhân dân Việt Nam ở vị trí cao nhất. Nhất là khi các nhân sự này được huấn luyện từ một quốc gia luôn có tham vọng thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam như Mỹ. Họ thậm chí còn không cần che giấu ý định này khi luôn tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, ngay cả khi Việt – Mỹ đã nâng cấp quan hệ ngoại giao lên cấp cao nhất với cam kết rằng không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau trong thông điệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Đáng nói hơn sự chuyển tiếp như vậy lại nhận được sự đồng thuận từ tầng lớp lãnh đạo cao nhất. Gần đây nhất, hồi tháng 03 năm 2024 Phó Thủ tướng Lê Minh Khái trong chuyến đi Mỹ đã thay mặt Chính phủ Việt Nam cảm ơn cá nhân GS. Thomas Vallely, Trường Harvard Kennedy và Đại học Fulbright đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao tích cực thúc đẩy và chuẩn bị Chương trình Lãnh đạo Cao cấp Việt Nam (VELP) năm 2024.
Trước đó vào tháng 12 năm 2023, Thủ tướng đương nhiệm Phạm Minh Chính trong buổi tiếp Thomas Vallely đã khẳng định rằng:
Thủ tướng chúc mừng Đại học Fulbright đạt nhiều kết quả tích cực về đào tạo và nghiên cứu, hoan nghênh Hoa Kỳ tiếp tục đầu tư lâu dài cho Đại học Fulbright, khẳng định Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục quan tâm, hỗ trợ để Đại học Fulbright trở thành một trong những trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam.
Năm 2024, cũng tại buổi tiếp trong buổi tiếp Thomas Vallely Thủ tướng Phạm Minh Chính một lần nữa nhắc lại:
Thủ tướng đề nghị Giáo sư Thomas Vallely và các chuyên gia tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong việc tư vấn chính sách, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, chia sẻ kinh nghiệm quản trị thông minh.
Các sự kiện này phản ánh một thực tế rằng Washington không chỉ đang tích cực lôi kéo Hà Nội khỏi các bạn bè truyền thống – những người đã luôn hỗ trợ và giúp đỡ Việt Nam cả vật chất lẫn tinh thần trong những giai đoạn gian khổ và khó khăn nhất, mà còn công khai nuôi tham vọng thay máu toàn bộ giới lãnh đạo Việt Nam. Việc Washington thể hiện thái độ tức tối một cách lố bịch trong chuyến thăm của Tổng thống Putin đến Hà Nội vào tháng 6 năm 2024 hay như trước đó vào năm 2015 Washington từng yêu cầu Hà Nội từ chối Nga sử dụng cảng Cam Ranh là những bằng chứng không thể chối cãi phơi bày dã tâm can thiệp và thao túng hệ thống chính trị Việt Nam.
Trong những năm gần đây Washington luôn tìm cách buộc Hà Nội phải từ bỏ sản phẩm quốc phòng từ Nga – những sản phẩm không chỉ đã giúp Hà Nội đứng vững trước kẻ thù xâm lược vượt trội hơn gấp nhiều lần mà còn thể hiện tính bền bỉ, sự ổn định và đặc biệt là độ tin cậy vượt trội cùng với chi phí hợp lý nếu không muốn nói là thấp so với các sản phẩm cùng loại đến từ phương Tây – những hệ thống vũ khí không chỉ đắt đỏ về chi phí mà độ tin cậy vẫn còn là dấu hỏi lớn, nhất là bài học kể từ sau cuộc chiến giành đảo Falkland giữa Anh và Argentina năm 1982.
Một đặc điểm không thể không nhắc đến khi sử dụng các sản phẩm, nhất là sản phẩm quốc phòng có nguồn gốc từ Mỹ và phương Tây đó là chúng đều luôn kèm theo các điều kiện chính trị ngặt nghèo, khó chịu mà một khi chấp nhận các điều kiện chính trị đó cũng đồng nghĩa với việc mất độc lập và chủ quyền quốc gia.
Thực tế trên là những ví dụ sinh động và không thể phủ bác về cái cách mà Washington đang thao túng chính sách ngoại giao và hệ thống chính trị của Hà Nội.
Trước thực tế này, làm thế nào để bảo vệ độc lập chủ quyền trước sự lôi kéo của Washington không chỉ là vấn đề đau đầu đối với Hà Nội mà đó còn là bài toán nan giải dành cho Mátxcơva. Bởi lẽ bài học đau xót từ việc để mất Ukraina đến từ các quyết định và chính sách sai lầm của các thế hệ lãnh đạo Liên Xô trước đây đã để lại hậu quả cực kỳ nghiêm trọng và khủng khiếp như thế nào. Ngày nay chính Tổng thống Putin đã phải gánh vác trách nhiệm giải quyết hậu quả nặng nề từ sai lầm khủng khiếp đó và một lần nữa người dân và binh lính Nga phải đổ máu vì sai lầm của các thế hệ lãnh đạo trong quá khứ.
Hay gần đây nhất là sự kiện Tổng thống Syria, Bashar al-Assad nhanh chóng thúc thủ trước phiến quân do Mỹ và chư hầu hậu thuẫn, đã đẩy Nga vào thế bất lợi tại Trung Đông, một lần nữa đặt ra bài toán hóc búa làm thế nào giữ vững độc lập và chủ quyền trước sự lôi kéo và thao túng từ phương Tây. Bởi lẽ không thể xây dựng thế giới đa cực khi mà mỗi thành viên trọng hệ thống đa cực đó không thể bảo vệ được độc lập, chủ quyền và vẫn phụ thuộc, bị thao túng, chi phối bởi một cực quyền lực duy nhất.
Mối quan hệ Nga – Việt chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ từ Mỹ và phương Tây do đó cũng không thoát khỏi quy luật trên.
Nguy cơ này đòi hỏi cả Viêt Nam lẫn Nga cần có cách tiếp cận năng động và sáng tạo hơn trong việc cũng cố và làm bền chặt mối quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Nói cách khác những cách tiếp cận trước đây trong việc xây dựng quan hệ ngoại giao Việt – Nga đã lạc hậu và lỗi thời hay ít nhất là không còn hiệu quả. Điều này thể hiện thông qua kim ngạch ngoại thương cực thấp giữa hai nước, tiếng Nga không còn là lựa chọn ưu tiên cao nhất tại Việt Nam và hệ quả là du học và việc làm ở Nga không còn thu hút được thanh niên Việt Nam nhiều như trước.
Tuy nhiên trong Nguy có Cơ, tức là trong nguy hiểm, thách thức luôn tiềm ẩn cơ hội phát triển. Có một thực tế không thể phủ nhận rằng việc mở cửa giao thương với Mỹ và phương Tây đã giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong thời gian qua, mang lại cơ hội phát triển không chỉ nâng cao thu nhập, mức sống mà còn mở ra cơ hội học tập tiếp cận tri thức thế giới, đây là điều đặc biệt có ý nghĩa nhất là đối với thanh niên – thế hệ sinh ra sau chiến tranh – những người sẽ định hình nên Việt Nam trong tương lai.
Đối với nước Nga, dù đang phải dành một lượng lớn nguồn lực cho Chiến dịch Quân sự Đặc biệt, nhưng về cơ bản Nga đã thoát khỏi tình trạng trì trệ trong thập niên 90. Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin mạnh mẽ và quyết đoán kinh tế đã tăng trưởng trở lại đồng thời trở thành nền kinh tế lớn nhất châu Âu tính theo sức mua tương đương. Gánh nặng từ Chiến dịch Quân sự Đặc biệt và các lệnh cấm vận từ Mỹ và phương Tây đã không thể quật ngã được nước Nga. Trái lại, nó không chỉ giúp nước Nga cũng cố và gia tăng tiềm lực mà còn chỉ ra cho thế giới thấy rằng sự phụ thuộc toàn diện vào đồng đô la sẽ phải trả giá cực đắt bằng độc lập, chủ quyền như thế nào.
Thông qua Chiến dịch Quân sự Đặc biệt thế giới cũng đã dần nhận ra chân tướng thực sự của Mỹ và phương Tây khi cái mặt nạ về dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận bị lột trần và phơi bày trước dư luận quốc tế.
Tình hình trên tạo ra môi trường thuận lợi để Việt – Nga cũng cố, tăng cường và làm sâu sắt hơn quan hệ ngoại giao hai nước.
Việc người đứng đầu Chính phủ Nga, Thủ tướng Vladimirovich Mishustin sang thăm Việt Nam trước thềm Tết Nguyên Đán Ất Tỵ 2025, cam kết hỗ trợ Việt Nam xây dựng Nhà máy điện hạt nhân đầu tiên tại Ninh Thuận cùng lời mời Tổng bí thư Tô Lâm dự Lễ Kỷ niệm 80 năm chiến thắng phát xít là những bước đi thể hiện rằng Mátxcơva mong muốn tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ keo sơn, bền chặt vốn có đã được thử lửa qua chiến tranh đối với Hà Nội, rằng Hà Nội có một vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Liên Bang Nga.
Ở chiều ngược lại liệu Tổng Bí thư Tô Lâm của Việt Nam có sang Mátxcơva tham dự Lễ Kỷ niệm 80 năm chiến thắng phát xít, để tiếp cục củng cố quan hệ hai nước hay không vẫn còn là ẩn số. Tuy nhiên, đây sẽ là cơ hội tốt để dư luận hai nước và cả quốc tế đánh giá mức độ độc lập trong chính sách ngoại giao và chủ quyền chính trị của Hà Nội, có đúng như những gì Thủ tướng Phạm Minh Chính từng nhấn mạnh về sự độc lập, tự chủ và ổn định của Việt Nam trong chuyến thăm và làm việc tại Singapore ngày 10 tháng 02 năm 2023 rằng 'Không ai có thể bắt Việt Nam làm gì' hay không.
Không ai có thể bắt Việt Nam làm gì. Thủ tướng Phạm Minh Chính
Là công dân Việt Nam sinh ra sau chiến tranh, được thụ hưởng thành quả hòa bình, độc lập do các thế hệ Việt Nam cũng như Liên Xô chung tay tranh đấu và xây dựng, lẽ đương nhiên là tôi mong muốn chuyến đi Mátxcơva tham dự Lễ Kỷ niệm 80 năm chiến thắng phát xít của Tổng Bí thư Tô Lâm sẽ diễn ra tốt đẹp.
Tuy nhiên, bất luận tình hình thực tế diễn tiến theo kịch bản nào, mong rằng quan hệ Nga – Việt vẫn tiếp tục trường tồn, tình hữu nghị tốt đẹp sẽ được lãnh đạo cũng như nhân dân hai nước trân trọng, chung tay vun đắp và gìn giữ cho thế hệ mai sau.
Mátxcơva, Ngày 30 tháng 01 năm 2025.